Ngày 12/9/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2018/NĐ-CP hướng dẫn quản lý, sử dụng hoá đơn điện tử. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong sử dụng hóa đơn khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, Nghị định 119 đã đưa ra lộ trình chuyển đổi từ việc sử dụng hóa đơn tự in, hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử trong vòng 24 tháng. Theo đó, chậm nhất là ngày 1/11/2020 các doanh nghiệp phải hoàn thành việc chuyển đổi sử dụng từ hóa đơn tự in, hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử.

Việc sử dụng hóa đơn điện tử mang lại nhiều lợi ích, như: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí vận chuyển bảo quản hóa đơn, giảm thiểu các thủ tục hành chính, an toàn, bảo mật…

Tuy nhiên, trên thực tế triển khai, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nhà cung cấp hóa đơn điện tử đủ năng lực, đủ uy tín để tư vấn được các nghiệp vụ mà doanh nghiệp quan tâm, hỗ trợ các thủ tục liên quan đến phát hành hóa đơn và các giấy tờ liên quan… Bên cạnh đó, việc áp dụng hóa đơn điện tử rất cần một hạ tầng kỹ thuật tốt, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu về mặt hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin – viễn thông…

Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy lộ trình triển khai hóa đơn điện tử, được sự chỉ đạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Báo Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Tổng cục Thuế tổ chức Diễn đàn: Tháo gỡ vướng mắc trong triển khai hóa đơn điện tử vào lúc 13h30 – 17h00 ngày 30 tháng 07 năm 2019 tại tầng 7, Tòa nhà VCCI, số 9,  Đào Duy Anh, Hà Nội.

Đến dự buổi tọa đàm có sự tham gia của: TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Phụng – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn – Tổng Cục thuế; Bà Lê Thị Duyên Hải – Vụ trưởng Vụ kê khai và kiểm toán thuế – Tổng cục Thuế; Ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ chính sách – Tổng Cục thuế; Bà Tạ Thị Phương Lan – Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ kinh doanh cá nhân – Tổng cục Thuế; Bà Nguyễn Thị Thu – Đại diện Cục Công nghệ thông tin – Tổng cục Thuế; Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam; Ông Nguyễn Khơ Din – Tổng thư ký CLB Chữ ký số và Giao dịch điện tử thuộc Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam; Bà Đinh Thị Thuý – Tổng Giám đốc CTCP Misa; Ông Lê Quang Anh – Phó Giám đốc Khối Dịch vụ khách hàng Công ty phát triển công nghệ Thái Sơn; Bà Trịnh Thị Lan – Phó Giám đốc Trung tâm Sản phẩm và Giải pháp, Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel -Tập đoàn Viettel; Ông Nguyễn Tương – Phó Tổng thư ký Hiệp hội Logicstic Việt Nam…

Về phía Ban tổ chức có sự hiện diện của: Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp; Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng Biên tập Báo Diễn đàn doanh nghiệp.

Ngoài ra, còn có sự hiện diện của các đại biểu, các doanh nghiệp và các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí.

TỔNG QUAN TRIỂN KHAI HOÁ ĐƠN ĐIỆN TỬ

TS. Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI 

Phát biểu tại Diễn đàn, TS. Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI khẳng định: bản chất của chuyển đổi số là vận hành, tích hợp công nghệ số vào tất cả các tiến trình vận hành của một tổ chức nhằm mang lại nhiều giá trị tích cực cho tổ chức đó như tối ưu quy trình quản lý, nâng cao hiệu suất làm việc, tiết kiệm chi phí…

Theo đó, ở Việt Nam, mặc dù đa số doanh nghiệp là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (DNNVV), nhưng không thể đứng ngoài chuyển đổi số. “Thậm chí đây chính là nền tảng, là cuộc cách mạng để các doanh nghiệp nhỏ lớn lên, xoá đi khoảng cách giữa doanh nghiệp lớn và khối DNNVV”, Chủ tịch VCCI khẳng định và nhấn mạnh: “Đứng trên vai của kỹ thuật số thì sẽ trở thành người khổng lồ”.

Do đó, TS Vũ Tiến Lộc nhận định, với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, quá trình nâng cấp các doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV, chính là chuyển đổi số.

Không thể để 30% GDP với hơn 6 triệu hộ kinh doanh ra ngoài vòng pháp luật, phải đưa hộ kinh doanh thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Đây là cách tiếp cận khác để đưa hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, không bắt họ chịu thêm chi phí hay thủ tục nhưng phải nâng cấp, minh bạch hoá khu vực này. Chính phủ hiện đã bổ sung thêm chương về hộ kinh doanh, tạo ra phiên bản mới của Luật Doanh nghiệp thời số hóa, tạo ra pháp lý chắp cánh cho khu vực hộ kinh doanh”, TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.

Theo đó, minh bạch cũng là yếu tố để bảo vệ người yếu thế, mà chuyển đổi số, số hoá là cách để minh bạch hoá. Do đó, chuyển đổi số càng cần thiết với khu vực DNNVV và doanh nghiệp siêu nhỏ, đó là cuộc cách mạng để số hoá, trong đó có cách ứng dụng hoá đơn điện tử.

“Có thể nói rằng áp dụng hóa đơn điện tử là xu thế tất yếu khi doanh nghiệp triển khai chuyển đổi số”, TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.

Việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian (giảm tới 70% các bước quy trình phát hành và 90% các tranh chấp liên quan đến hóa đơn, rút ngắn tới 99% thời gian thanh toán, quản lý hóa đơn, tiết kiệm 80% chi phí cho mỗi hóa đơn)…

“Đây thực sự là con số có ý nghĩa lịch sử với doanh nghiệp. Khi sử dụng hóa đơn điện tử, doanh nghiệp không cần chờ đợi nhận được hóa đơn theo đường bưu điện như cách làm truyền thống. Chỉ trong vài cú nhấp chuột, người mua hàng sẽ nhận được hóa đơn dù đang ở bất cứ nơi nào nếu có internet”, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.

Đặc biệt, doanh nghiệp cũng không lo tình trạng bị thất lạc hóa đơn trong khi chờ chuyển phát. Việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí hơn so với sử dụng hóa đơn giấy như: Chi phí giấy in, mực in, chi phí chuyển hóa đơn cho khách hàng và đặc biệt là giảm chi phí lưu trữ hóa đơn. Đồng thời, doanh nghiệp cũng giảm thời gian tìm kiếm hóa đơn, tăng cường khả năng bảo mật; giúp việc lưu trữ, quản lý hóa đơn vĩnh viễn; không có rủi ro mất, nhàu nát như khi lưu trữ hóa đơn giấy…

Bên cạnh đó, việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế. Khi doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử, về cơ bản, các thủ tục hành chính thuế của doanh nghiệp cũng được thực hiện điện tử. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần thông báo qua mạng gửi đến cơ quan thuế về việc sử dụng hóa đơn điện tử và được sử dụng ngay sau khi thông báo được chấp nhận.

Cùng với đó, doanh nghiệp không phải đăng ký mẫu hóa đơn điện tử, không phải gửi báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn đến cơ quan thuế do phần mềm tạo hóa đơn điện tử cho phép tự xác định số lượng hóa đơn điện tử sử dụng.

Đối với các cơ quan quản lý, đặc biệt là đại diện cơ quan quản lý thuế, việc sử dụng hóa đơn điện tử cũng giúp cơ quan thuế kịp thời ngăn chặn hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ trốn, mất tích, khắc phục tình trạng làm giả hóa đơn, tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp, thúc đẩy thương mại điện tử phát triển. Đồng thời, sử dụng hóa đơn điện tử góp phần bảo vệ môi trường, khắc phục được trình trạng gian lận sử dụng bất hợp pháp hóa đơn – lập hóa đơn sai lệch nội dung giữa các liên.

“Tuy nhiên, hiện tại chi phí áp dụng hóa đơn điện tử vẫn cao hơn nhiều so với việc doanh nghiệp tự in hóa đơn, đó là lý do đầu tiên doanh nghiệp không lựa chọn”, TS Vũ Tiến Lộc đặt vấn đề và đề nghị doanh nghiệp thảo luận sâu về những khó khăn trong việc áp dụng hóa đơn điện tử.

 Từ phải qua trái: Ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ chính sách – Tổng Cục thuế; TS Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Phụng – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn – Tổng Cục thuế

Theo ông Lộc, việc áp dụng hóa đơn điện tử rất cần một hạ tầng kỹ thuật tốt, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu về mặt hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin – viễn thông.

Bên cạnh đó, hiện thói quen sử dụng tiền mặt của người dân Việt Nam cũng là nguyên nhân dẫn tới hóa đơn điện tử “chậm” được áp dụng và triển khai trên quy mô lớn.

Theo đó, để có đủ điều kiện sử dụng hóa đơn điện tử, một trong những điều kiện mà các doanh nghiệp phải có được chính là hệ thống máy móc và trang thiết bị đảm bảo cho việc vận hành và sử dụng hóa đơn này. Ngoài ra, còn phải có một hệ thống nhân lực với trình độ cao để có thể sử dụng hóa đơn điện tử. Đó là chưa kể đến sự phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc khi có sự cố mất điện hay hệ thống bị lỗi, hoặc mất tín hiệu internet thì các doanh nghiệp sẽ gặp vấn đề với loại hình hóa đơn này. Điều đó có nguy cơ dẫn tới việc chậm trễ trong việc xuất hàng hóa và ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp.

Ngoài ra, theo quy định của Luật Giao dịch điện tử, điều kiện để thực hiện giao dịch điện tử khắt khe và phức tạp hơn nên việc triển khai chậm hơn. Hóa đơn điện tử chạy bằng phần mềm phải có chứng thư kĩ thuật số, hạ tầng ngành viễn thông cũng như các điều kiện khác từ phía các doanh nghiệp, như phải kết nối cơ quan thuế và cơ quan liên quan thì mới có thể sử dụng hóa đơn điện tử.

Mặc dù có nhiều lợi ích khi sử dụng hình thức hóa đơn điện tử nhưng những bất cập được các doanh nghiệp đưa ra qua những cuộc thảo luận của VCCI cũng là điều mà cơ quan chức năng cần xem xét để có hướng giải quyết phù hợp, giúp việc sử dụng hóa đơn điện tử trở thành một giải pháp tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ số hóa.

“Đề nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế cần đẩy mạnh tuyên truyền về hành lang pháp lý và lợi ích của việc phát hành hóa đơn điện tử, để các doanh nghiệp hiểu rõ được những lợi ích của việc sử dụng hóa đơn điện tử và triển khai thực hiện sớm loại hình dịch vụ này”, TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.

ông Nguyễn Hữu Tân - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách - Tổng cục Thuế

Ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách – Tổng cục Thuế

Theo ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách – Tổng cục Thuế, sau 7 năm thực hiện Nghị định 51/2010/NĐ-CP và Nghị định 04/2014 về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các văn bản hướng dẫn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Cụ thể, ông Tân cho biết, đã chuyển đổi phương thức phát hành, quản lý hóa đơn của doanh nghiệp từ cơ chế “mua hóa đơn của cơ quan thuế “sang cơ chế “doanh nghiệp tự đặt in, tự in hóa đơn” để sử dụng.

Đồng thời, chuyển đổi phương thức quản lý hóa đơn (giấy) của cơ quan thuế bằng việc giao cho Cục thuế các địa phương đặt in hóa đơn bán cho tổ chức, cá nhân không phải là doanh nghiệp nhưng có hoạt động kinh doanh.

“Quy định tại Nghị định số 51 và 04 về hóa đơn đã quy định quyền và trách nhiệm về hóa đơn cho các doanh nghiệp, góp phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm của cơ quan thuế địa phương trong công tác quản lý hóa đơn” – ông Tân nói.

Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, Nghị định 51 và 04 cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Theo đó, để cải cách hành chính và thủ tục quản lý thuế, trong đó có thủ tục quản lý, sử dụng hóa đơn, hướng tới hoạt động quản lý hóa đơn thống nhất, dễ thực hiện hơn.

Đồng thời tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý hóa đơn để đề phòng, chống việc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp hoặc sử dụng bất hợp pháp hóa đơn để gian lận, trốn thuế…

Trên cơ sở tham khảo thông lệ quốc tế, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịnh vụ.

Cụ thể, theo quy định, Nghị định 119 bắt đầu có hiệu lực từ 1/11/2018. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi từ hóa đơn giấy truyền thống sang hoá đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, tại Khoản 2 điều 35 Nghị định 119, các doanh nghiệp và cơ quan thuế có thời hạn 24 tháng (kể từ 1/11/2018 đến 1/11/2020) để chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất và con người để áp dụng hoá đơn điện tử.

Trong thời gian từ 1/11/2018 đến ngày 31/10/2020, các Nghị định 51/2020/NĐ-CP và Nghị định 04/2014/NĐ-CP của Chính phủ vẫn còn hiệu lực thi hành.

Theo đó, trường hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đã thông báo phát hành hoá đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC hoặc đã đăng ký áp dụng hoá đơn điện tử có mã của cơ quan thuế trước ngày 1/11/2018 thì tiếp tục sử dụng hoá đơn điện tử đang sử dụng kể từ ngày 1/11/2018; Tiếp tục sử dụng hoá đơn đặt in, hoá đơn tự in, hoá đơn đã mua đến hết ngày 31/10/2020 và phải thực hiện các thủ tục về hoá đơn theo quy định tại các NĐ 51/2020/NĐ-CP và NĐ 04/2014/NĐ-CP.

Từ ngày 1/11/2018 đến ngày 31/10/2020, trường hợp cơ quan thuế thông báo cơ sở kinh doanh chuyển đổi để áp dụng hoá đơn điện tử có mã nếu cơ sở kinh doanh chưa đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin mà tiếp tục sử dụng hoá đơn giấy theo các hình thức đặt in, tự tin thì cơ sở kinh doanh thực hiện gửi dữ liệu hoá đơn đến cơ quan thuế cùng với việc nộp tờ khai thuế GTGT.

Đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập trong thời gian từ ngày 1/11/2018 đến ngày 31/10/2020, trường hợp cơ quan thuế thông báo cơ sở kinh doanh thực hiện áp dụng hoá đơn điện tử theo quy định tại Nghị định này thì cơ sở kinh doanh thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan thuế.

Trường hợp chưa đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin mà tiếp tục sử dụng hoá đơn theo quy định tại các Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính phủ quy định về hoá đơn bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và thực hiện các thủ tục như các cơ sở kinh doanh nêu tại khoản 2 Điều này.

Đối với tổ chức sự nghiệp công lập đã sử dụng Phiếu thu tiền thì tiếp tục sử dụng Phiếu thu tiền đã sử dụng và chuyển đổi sang áp dụng hoá đơn điện tử theo lộ trình của Bộ tài chính.

Cũng theo ông Nguyễn Hữu Tân, về số liệu áp dụng hoá đơn điện tử có mã của cơ quan thuế, tính đến tháng 7/2019, số lượng doanh nghiệp đã đăng ký phát hành hoá đơn điện tử có mã của Cơ quan Thuế là 279 doanh nghiệp (tại Hà Nội là 128 doanh nghiệp, tại TP HCM là 118 doanh nghiệp, tại Đà Nẵng là 33 doanh nghiệp). Trong đó, số lượng doanh nghiệp đã xuất HĐĐT có mã là 255 (trong đó, tại Hà Nội có 107 doanh nghiệp đã xuất hoá đơn, tại TP HCM là 117 doanh nghiệp và tại Đà Nẵng là 31 doanh nghiệp.

Tình hình xuất hoá đơn của các doanh nghiệp thì tổng số hoá đơn được xác thực là 8.111.337 hoá đơn/255 doanh nghiệp; Tổng cục thuế đã xác nhận: 8.033.386.244.730 VND.

Về áp dụng hoá đơn điện tử theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC thì số lượng người nộp thuế đã thông báo phát hành hoá đơn điện tử theo Thông tư tính đến hết ngày 22/7/2019 như sau: Số lượng người nộp thuế đang hoạt động có thông báo phát hành hoá đơn điện tử là 118.620. Số lượng hoá đơn điện tử (số sử dụng) tính đến thời điểm 30/6/2019 của người nộp thuế đang hoạt động là 2,3 tỷ hoá đơn.

Ông Nguyễn Khơ Din – Giám đốc khối khách hàng doanh nghiệp, Tập đoàn Công nghệ BKAV, Tổng thư ký CLB chữ ký số và giao dịch điện tử Thuộc Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam

Trao đổi cụ thể về những khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp gặp phải trong quá trình triển khai hóa đơn điện tử, ông Nguyễn Khơ Din – Giám đốc khối khách hàng doanh nghiệp, Tập đoàn Công nghệ BKAV, Tổng thư ký CLB chữ ký số và giao dịch điện tử Thuộc Hiệp hội An toàn thông tin Việt Namcho biết, “là những doanh nghiệp không chỉ cung cấp mà còn tiên phong sử dụng, chúng tôi thấy rằng, lợi ích của việc sử dụng hóa đơn điện tử cho doanh nghiệp đó là tiết kiệm 70-90% chi phí cho doanh nghiệp, không lo mất, hỏng hóa đơn, thống kê, báo cáo đơn giản, không lo hóa đơn giả”. 

Ông Nguyễn Khơ Din cũng cho biết, nhận thức của doanh nghiệp về hóa đơn điện tử cũng đã có sự chuyển biến tích cực kể từ khi Nghị định 119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ ra đời.

Nếu trước đây, khi chưa có Nghị định, số lượng doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử chỉ dừng ở con số khoảng 1000 doanh nghiệp thì nay, trong bối cảnh chuyển đổi số, con số này đã lên tới hàng chục, hàng trăm nghìn doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giải pháp hóa đơn điện tử cũng nhận được nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, vận động về triển khai hóa đơn điện tử giai đoạn này gặp nhiều thuận lợi hơn.

Về phía cơ quan quản lý, việc triển khai hóa đơn điện tử giúp ngành thuế xây dựng cơ sở dữ liệu về hóa đơn, thuận tiện trong việc quản lý như thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện các hành vi gian lận, trốn thuế, tiết kiệm chi phí.

Tuy nhiên, theo ông Din, bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn tồn tại những thách thức, trong đó có thể kể đến về mặt pháp lý. Cụ thể, mặc dù Nghị định 119 đã có hiệu lực từ tháng 9/2018 song lại chưa có thông tư hướng dẫn nghị định này. Chính vì vậy, hiện đang có những “khoảng trống” quy định và đánh giá các đơn vị triển khai, quy định về ngày ký, ngày lập hóa đơn chưa rõ ràng, chưa có hưỡng dẫn cho các loại hóa đơn đặc biệt…

Bên cạnh đó, cũng phải kể đến vướng mắc trong hoạt động triển khai chưa đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp như thuế, kho bạc, bảo hiểm, quản lý thị trường.

Ví dụ, cơ quan thuế thì khuyến khích việc sử dụng hóa đơn điện nhưng khi doanh nghiệp dùng hóa đơn điện tử, mang đến kho bạc hay đơn vị bảo hiểm thì lại chưa chấp nhận loại hóa đơn này. Theo đó yêu cầu doanh nghiệp lại chuyển đổi sang hóa đơn giấy. Việc này làm mất đi ý nghĩa của việc triển khai hóa đơn điện tử.

Ông Nguyễn Khơ Din cũng chia sẻ, chính vì chưa có thông tư hướng dẫn nên trong quá trình triển khai các doanh nghiệp vẫn vướng mắc trong việc có cần thiết phải có chữ ký của người bán có hiển thị trên háo đơn hay không? Đơn vị độc lập nào sẽ thẩm tra năng lực của đơn vị cung cấp giải pháp dịch vụ cung cấp hóa đơn, kiểm tra tính an toàn, an ninh và bảo mật của dịch vụ?…

Trước những khó khăn này, thay mặt câu lạc bộ chữ ký số và giao dịch điện tử ông Nguyễn Khơ Din kiến nghị triển khai đồng bộ giữa các cơ quan liên quan. Các cơ quan cần ngồi lại để đưa ra những giải pháp tháo gỡ vướng mắc không gây khó khăn cho doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử.

Đồng thời, câu lạc bộ kiến nghị sớm ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết hơn về hóa đơn điện tử quy định rõ: lựa chọn đơn vị cung cấp, các vấn đề liên quan ngày ký, ngày lập hóa đơn. Bộ Tài chính, Tổng cục thuế cần đưa ra lộ trình triển khai rõ ràng theo từng giai đoạn cụ thể để tránh dồn vào thời điểm năm 2020.

KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP CHO DOANH NGHIỆP

  • Những khó khăn vướng mắc phát sinh trong triển khai chuyển đổi từ hóa đơn giấy, hóa đơn tự in sang hóa đơn điện tử;
  • Những kiến nghị, đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp trong thực hiện hóa đơn điện tử;
  • Chia sẻ một số đề xuất, kinh nghiệm, giải pháp hỗ trợ DN triển khai hoá đơn điện tử tại Việt Nam;
  • Giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệp.

Từ phải qua trái: ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ chính sách – Tổng Cục thuế; ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; ông Nguyễn Văn Phụng – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn – Tổng Cục thuế

Ông Nguyễn Tương – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam cho biết: Hiệp hội Dịch vụ Doanh nghiệp Logistics Việt Nam có 400 doanh nghiệp trong 4.000 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam. Trong số 400 hội viên, có 67% là DNVVN có khó khăn về nguồn vốn, quản lý và ứng dụng khoa học công nghệ, nên sẽ gặp khó khăn trong việc triển khai hoá đơn điện tử.

Ông Nguyễn Tương – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam

Theo ông Tương, để triển khai hóa đơn điện tử, cần giải quyết một số vấn đề:

Thứ nhất, cần tạo ra nền tảng cho thực hiện hoá đơn điện tử, đồng bộ hoá trong triển khai hoá đơn điện tử của chính nội bộ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

Thứ hai, Nghị định 119/2018/NĐ-CP đã được ban hành, nhưng chưa có Thông tư hướng dẫn gây khó cho doanh nghiệp trong việc triển khai hóa đơn điện tử.

Thứ ba, hiện có khoảng 200 doanh nghiệp cung ứng dịch vụ kỹ thuật điện tử cho doanh nghiệp ứng dụng hoá đơn điện tử. Trong đó, có những doanh nghiệp lớn và nhỏ nhưng hiện chưa có quy định, tiêu chuẩn cho các doanh nghiệp cung ứng này.

Những doanh nghiệp nói trên cũng đã từng đến tiếp thị cung cấp dịch vụ ứng dụng hóa đơn điện tử, nhưng chúng tôi cũng khó lựa chọn, bởi chúng tôi chưa biết căn cứ vào tiêu chuẩn nào để lựa chọn các đơn vị cung cấp dịch vụ hoá đơn điện tử”, ông Nguyễn Tương nói.

Thứ tư, hiện chúng ta làm khai báo hải quan và 1 cửa quốc gia tốt, nhưng việc kết nối với các Bộ, ngành chưa được nhiều, nhất là với các cơ quan thuế, bảo hiểm, kho bạc. Vì vậy, cần giải quyết vấn đề đó để doanh nghiệp thực hiện ứng dụng hoá đơn điện tử.

Thứ năm là vấn đề tuyên truyền và đào tạo cho các cán bộ trong doanh nghiệp.

“Khi phát hành hoá đơn điện tử lưu trong máy, nhưng sửa đổi vẫn phải in ra giấy, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, các cơ quan quản lý cần thống nhất cách thực hiện. Mỗi lần giao nhận có một khách hàng, một khách hàng có nhiều lần giao nhận nên có nhiều mã khác nhau, cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp khi khai các mã số”, ông Nguyễn Tương nhấn mạnh.

Thứ sáu, cần đồng bộ ứng dụng công nghệ thông tin của mọi địa phương, mọi ngành vì logistics là ngành hoạt động trải dài.

 Bà Nguyễn Hoài Hương – Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng (GAET)

Ở góc độ doanh nghiệp, bà Nguyễn Hoài Hương – Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng (GAET) chia sẻ, đối với Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng, việc thực hiện hóa đơn điện tử là giải pháp tháo gỡ khó khăn, phiền hà cho nhiều doanh nghiệp. Nhưng trong quá trình triển khai hóa đơn điện tử, mỗi doanh nghiệp đều có những khó khăn riêng.

Với Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng, có những vướng mắc như sau:

Thứ nhất, Nghị định 119/2018/NĐ-CP được ban hành ngày 12/9/2018 nhưng chưa có Thông tư hướng dẫn. Đối với Tổng công ty Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp quốc phòng, ngoài lĩnh vực đặc thù, còn có lĩnh vực dịch vụ và chi nhánh trải khắp toàn quốc. Do đó, đối tượng khách hàng cũng trải rộng trên nhiều địa phương.

Đơn cử, vấn đề nổi cộm hiện nay là chữ kỹ số trên hóa đơn điện tử có bắt buộc thể hiện ngày ký hay không? “Chúng tôi đã có văn bản hỏi trực tiếp Tổng cục Thuế nhưng đến nay chưa có văn bản hướng dẫn về việc này. Trong khi đó, các Chi cục thuế tại địa phương yêu cầu bắt buộc phải thể hiện ngày ký, phát hành chữ ký số” – bà Hương nói.

Thứ hai, với hóa đơn giấy trước đây, nếu có sai sót, chỉ cần lập biên bản điều chỉnh và xuất hóa đơn điều chỉnh. Nhưng với hóa đơn điện tử, nếu điều chỉnh 2 nội dung thì phải xuất 2 hóa đơn điều chỉnh. Do đó, đối với khách hàng khi nhận hóa đơn điều chỉnh, họ sẽ khó chấp nhận việc sai sót trên hóa đơn gốc nhưng đi kèm 2,3 hóa đơn điều chỉnh. Điều này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp

Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp khẳng định: “Ban tổ chức đã nhận được rất nhiều câu hỏi liên quan đến các nội dung: Ngày ký hóa đơn có nhất thiết phải trùng với ngày lập hóa đơn hay không? Công ty kê khai hóa đơn theo ngày lập hay ngày ký? Việc lưu trữ hóa đơn đối với người mua được thực hiện như thế nào? Xử lý như thế nào đối với một hóa đơn điện tử làm hồ sơ vay vốn tại nhiều ngân hàng khác nhau? Khi nào hồ sơ cấp giấy chứng nhận sử dụng đất có chấp nhận hóa đơn điện tử hay không? Hóa đơn cung cấp sẽ là bản in ra hay bản chuyển đổi, đóng dấu?

Một số vấn đề khác như: Doanh nghiệp đã sử dụng hóa đơn điện theo thông tư 32 từ năm 2018 đã phát hành 10.000 hóa đơn đến tháng 9/2019 đã sử dụng hết, cần tiếp tục phát hành hóa đơn điện tử, xin hỏi doanh nghiệp có phải thông báo phát hành hóa đơn điện tư theo thông tư 32 hay theo Nghị định 119?…” – Nhà báo Phạm Ngọc Tuấn nói.

Liên quan đến vấn đề hiện nay có 2 vướng mắc và đã có văn bản gửi lên Tổng cục Thuế nhưng mới trả lời bằng lời, chưa có văn bản trả lời. Đó là thời điểm doanh nghiệp khởi tạo hóa đơn điện tử ví dụ là ngày hôm nay, nhưng ngày sau đó chữ kí điện tử mới có. Vậy lấy thời điểm nào để hợp pháp? Để kê khai thuế và xác định nghĩa vụ thuế thì ngày khởi tạo hóa đơn điện tử hay ngày ký?

Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam cho biết, trước đây bà đã đưa ý kiến này ra trao đổi với các đại biểu trong hội thảo hóa đơn điện tử tại Hà Nội và tại TP HCM. Tổng cục thuế đã trả lời trong buổi hội thảo đó là “trong trường hợp chữ kí sau thì lấy ngày hợp pháp là ngày lấy chữ kí số”. 

Bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam

Sở dĩ như vậy là do khởi tạo hóa đơn chưa có chữ kí số thì chưa có hiệu lực thi hành, chưa hoàn thành thủ tục. Do đó, khi nào có bản khởi tạo và cả chữ kí số thì mới được coi là đã hoàn thiện.

Tuy nhiên, có thể thấy vấn đề khởi tạo và chữ kí số là rất thông dụng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Bên cạnh đó, hóa đơn có mã xác thực là khi người bán hóa đơn gửi đến cơ quan thuế sẽ được cấp mã xác thực sau đó chuyển lại. Nhưng trường hợp thứ hai là họ không có mã, thì sau khi người bán, phát hành, khởi tạo hóa đơn chuyển đến cho người mua, sau đó lại quay hóa đơn đó thông báo về cho cơ quan thuế.

Thời điểm thông báo lại cho cơ quan thuế là hàng ngày, hàng tuần hay hàng quý cũng nên quy định rõ để các doanh nghiệp xác nhận nghĩa vụ của mình.

Liên quan đến đề xuất cần ban hành sớm thông tư hướng dẫn Nghị định 119, ông Nguyễn Hữu Tân – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách – Tổng cục Thuế cho biết, sẽ tiếp thu vấn đề này. “Tuy nhiên, đây là nội dung rất lớn, không chỉ đơn thuần là các doanh nghiệp có điều kiện mới áp dụng hóa đơn điện tử mà hướng tới việc toàn bộ doanh nghiệp phải thực hiện hóa đơn điện tử. Điều này đòi hỏi hạ tầng kỹ thuật thông tin lớn, cần thời gian để chuẩn bị nên không thể làm trong một sớm một chiều” – ông Tân nhấn mạnh.

Liên quan đến câu hỏi của doanh nghiệp là phát hành hóa đơn theo Thông tư 39 hay theo Nghị định 119, ông Nguyễn Hữu Tân cho biết, trong giai đoạn chuyển đổi này, các doanh nghiệp đang thực hiện phát hành hóa đơn theo Thông tư 39 thì tiếp tục thực hiện không không phải dừng lại.

Ngoài ra, trước những câu hỏi về yêu cầu đẩy mạnh tuyên truyền, ông Nguyễn Hữu Tân cho biết đã tiếp thu ý kiến này. Trước đây, ngay khi có Nghị định 119 Bộ Tài chính đã gửi công văn tới toàn bộ các tỉnh thành, đồng thời tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông.

Về đề xuất liên kết giữa các đơn vị như Cục thuế, kho bạc, bảo hiểm… ông Nguyễn Hữu Tân cho biết, để liên kết các đơn vị sử dụng cùng một loại hóa đơn điện tử điều này không hề dễ dàng vì còn phụ thuộc vào hạ tầng cơ sở của mỗi đơn vị; đồng thời điều này còn phải đảm bảo tính pháp lý.

Liên quan đến kiến nghị, ngày phát hành và ngày ký có cần thiết phải trùng nhau không? Ông Nguyễn Hữu Tân cho biết là ngày ký và ngày phát hành phải trùng nhau. Nếu không có đủ các tiêu chí thì không thể được coi là hóa đơn hợp lệ.

Liên quan đến câu chuyện vướng mắc của doanh nghiệp trong việc triển khai hóa đơn điện tử khách hàng và cục thuế địa phương yêu cầu việc xuất hóa đơn điện tử phải hiển thị ngày ký hóa đơn của doanh nghiệp GAET, bà Nguyễn Thị Cúc – Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam chia sẻ: “Tôi cho rằng, vấn đề này đang trong quá trình hoàn thiện để nghiên cứu. Vì vậy, theo tôi Tổng Cục thuế nên ghi nhận những kiến này của doanh nghiệp”.

Theo bà Cúc, trong quá trình làm việc với doanh nghiệp bà nhận thấy, khi sử dụng hóa đơn giấy, việc lập hóa đơn có thể là ngày hôm nay, nhưng vì lý do nào đó, lãnh đạo doanh nghiệp đi công tác xa hoặc vắng mặt ở cơ quan, chưa thể ký, thì có thể ký và hoàn thiện hóa đơn sau vài ngày cũng không có vấn đề gì cả. Bởi chưa đến hạn kê khai thuế hàng tháng trước là ngày 20 tháng sau.

Tuy nhiên, khi ứng dụng hóa đơn điện tử việc lập hóa đơn ngày nào thì hiện rõ ngay ngày lập, và khi hóa đơn giao đi rồi mà chưa có chữ ký số thì cũng là tình trạng thực tế mà doanh nghiệp gặp phải vì lý do bất khả kháng như nhân viên kế toàn trưởng của doanh nghiệp nghỉ phép.

Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa việc triển khai hóa đơn điện tử và hóa đơn giấy trong thực tiễn mà doanh nghiệp đang gặp phải.

Bà Nguyễn Thị Cúc cũng chia sẻ, hiện nay, Tổng Cục Thuế cũng đã ghi nhận những trường hợp tương tự như của GAET, song Tổng Cục thuế vẫn đang “loay hoay” tìm kiếm giải pháp để “gỡ vướng” cho các doanh nghiệp. Đối với hóa đơn điện tử, theo quan điểm của bà Nguyễn Thị Cúc thì hóa đơn điện tử hợp pháp là hóa đơn vẫn phải có chữ ký điện tử và tính theo thời gian của ngày ký.

Bà Đinh Thị Thuý – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Misa

Liên quan tới câu hỏi ngày ký hóa đơn có nhất thiết phải trùng với ngày lập hóa đơn hay không, bà Đinh Thị Thuý – Tổng Giám đốc Công ty cồ phần Misa cho biết, một hoá đơn có thể có hai ngày là ngày lập hoá đơn và ngày ký phát hành có thể khác nhau, việc phía doanh nghiệp mong ngày lập hoá đơn sẽ được tính để hạch toán hoá đơn. Chính vì vậy, cơ quan quản lý cần thống nhất xác định ngày có giá trị pháp lý.

 Ông Vũ Xuân Quyết – Trưởng phòng CNTT – Cục thuế tỉnh Bắc Ninh

Ông Vũ Xuân Quyết – Trưởng phòng CNTT – Cục thuế tỉnh Bắc Ninh cho biết, toàn bộ hoá đơn điện tử không mã của cơ quan thuế đang được áp dụng theo Thông tư số 32/2011/TT-BTC. Theo đó, có sự đảm bảo tính toàn vẹn thông tin từ khi tạo lập đến dạng cuối là hoá đơn điện tử, chưa có thay đổi, có thể truy cập sử dụng hoàn thiện khi cần thiết.

Do đó, hoá đơn điện tử phải ở dạng cuối cùng tức là có chữ ký điện tử mới là hoá đơn hợp pháp.

Các nhà cung cấp phải đi đầu phổ biến cho người dân, doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ và giao dịch dữ liệu điện tử khi chữ ký số còn hiệu lực. Nếu chỉ ký điện tử mà bỏ thông tin thời gian ký chữ ký điện tử là chưa có tác dụng.

Trên các phần mềm hoá đơn điện tử thể hiện file PDF, chữ ký chỉ ở dạng thể hiện “ký bởi…”. Như vậy Cục thuế trả lời không hợp pháp là đúng. Vì yêu cầu bản thể hiện hoá đơn điện tử phải thể hiện đầy đủ toàn vẹn hoá đơn điện tử.

Bà Trịnh Thị Lan – Phó Giám đốc Trung tâm sản phẩm và giải pháp, Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel – Tập đoàn Viettel 

Có mặt tại Diễn đàn, bà Trịnh Thị Lan – Phó Giám đốc Trung tâm sản phẩm và giải pháp, Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel – Tập đoàn Viettel cho biết, là đơn vị cung cấp hoá đơn điện tử, Viettel cũng bị vướng mắc ở việc có bắt buộc phải hiển thị ngày ký hay không? Trong khi đó có sự chênh lệch giữa các địa phương ví như ở Huế yêu cầu bắt buộc, Đồng Nai cũng yêu cầu tương tự, thậm chí yêu cầu cả giờ ký. Tuy nhiên, Hà Nội lại không nhất thiết phải thể hiện ngày ký trên bản hiển thị, do đó kiến nghị cần đồng nhất.

Ông Nguyễn Văn Phụng – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn – Tổng Cục thuế

Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Văn Phụng – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn – Tổng Cục thuế cho biết, hoá đơn chỉ hợp pháp khi đối tượng pháp lý, tức chủ doanh nghiệp phải ký hoá đơn đó. Hiện thông tư chưa có quy định về giờ ký mà chỉ có yêu cầu về ngày ký do đó, sắp tới sẽ được bổ sung. Ông Phụng cũng cho rằng, đã là điện tử phải chuẩn chỉ đầy đủ form, mẫu ô mới giao dịch được.

“Lâu nay chúng ta chuyển từ giấy sang hoá đơn nên chưa chuẩn chỉ. Do đó, các doanh nghiệp lựa chọn nhà cung cấp cũng cần phải có tiêu chuẩn của người cung cấp hoá đơn điện tử. Đồng thời phải đảm bảo năng lực hạ tầng, nhân lực đáp ứng được yêu cầu không chỉ có chuyên môn kế toán, có đội ngũ hỗ trợ…” – ông Phụng nói.

 Bà Nguyễn Thị Thu – Trưởng phòng Quản lý phần mềm – Cục Công nghệ Thông tin, Tổng cục Thuế

Đứng ở góc độ cơ quan quản lý công nghệ thông tin của Tổng cục Thuế, bà Nguyễn Thị Thu – Trưởng phòng Quản lý phần mềm – Cục Công nghệ Thông tin, Tổng cục Thuế cho biết, về việc hiển thị ngày ký hay không, nếu pháp luật quy định phải hiển thị ngày ký thì kỹ thuật hoàn toàn có thể làm được. Trường hợp pháp luật không quy định điều này, thì kỹ thuật có thể để hiện thị hay không.

Về hạ tầng công nghệ thông tin liên quan đến hóa đơn điện tử, so với quy định trước đây, hiện vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể về các định dạng hóa đơn điện tử hay những hình thức trao đổi kết nối dữ liệu.

Trong thời gian tới, Tổng cục Thuế dự kiến sẽ ban hành những quy định cụ thể về mặt kỹ thuật, như những trường nào là bắt buộc?; các giao thức kết nối trong phát hành hóa đơn điện tử như thế nào để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử nắm được, đảm bảo việc trao đổi, sử dụng dữ liệu được chuẩn hóa.

Liên quan đến điều kiện về tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử, Bà Thu cho biết Bộ Tài chính đã có hướng dẫn cụ thể về điều kiện công nhận đơn vị được phép cung cấp hóa đơn điện tử, như năng lực, tài chính, hạ tầng công nghệ thông tin, kỹ thuật, kết nối…

“Chắc chắn sẽ có những hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện hóa đơn điện tử. Trên cơ sở đó, Tổng cục Thuế sẽ thiết lập hệ thống công nghệ thông tin của mình để có thể tiếp nhận được các hóa đơn điện tử của các tổ chức, doanh nghiệp”, bà Thu cho biết.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Lê Quang Anh – Phó Giám đốc Khối dịch vụ khách hàng Công ty Phát triển Công nghệ Thái Sơn cho biết, một số cơ quan thuế đã có công văn gửi tới các doanh nghiệp về việc ngày ký và ngày lập hóa đơn điện tử phải trùng nhau. Nếu không thì hóa đơn đó không được coi là hợp lệ.

Vì vậy, đại diện công ty Thái Sơn kiến nghị, không nên “áp cứng” quy định này vào doanh nghiệp, bởi có những doanh nghiệp đặc thù như bán hàng online thì sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp này nói riêng và toàn bộ doanh nghiệp trong việc chuyển đổi sang hóa đơn điện tử.

Đồng thời, đại diện Công ty Thái Sơn cũng kiến nghị, có thể linh hoạt về ngày ký hóa đơn và ngày lập không nhất thiết phải trùng nhau.

Bà Trịnh Thị Lan – Phó Giám đốc Trung tâm sản phẩm và giải pháp, Tổng Công ty Giải pháp Doanh nghiệp Viettel – Tập đoàn Viettel khẳng định: “Viettel sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp”.

Theo bà Lan, theo quy định, doanh nghiệp cần bảo mật, lưu trữ hoá đơn trong thời hạn 10 năm, vậy làm thế nào để đảm bảo nền tảng lưu giữ hoá đơn điện tử của doanh nghiệp trong 10 năm? Bởi nếu những doanh nghẹp cung cấp hoá đơn điện tử bị phá sản, thì cần xử lý như thế nào? Do đó, cần quy định điều kiện chặt chẽ về vấn đề này.

“Tổng cục Thuế cần có hướng dẫn cụ thể cho từng trường hợp vướng mắc nói trên”, bà Lan nhấn mạnh.

Trong khi đó, bà Đinh Thị Thuý – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Misa cho rằng, hiện nay, các DNVVV còn gặp khó khăn trong chuyển đổi hoá đơn điện tử bởi doanh nghiệp còn sử dụng hoá đơn giấy, chưa tới thời điểm bắt buộc chuyển đổi hoàn toàn sang hoá đơn điện tử, doanh nghiệp vẫn đang lo ngại về tính an toàn, bảo mật của hóa đơn điện tử. Cùng với đó, nhằm cung cấp giải pháp minh bạch tối đa trong ngành thuế, thuận tiện cho tổng hợp báo cáo của ngành thuế, Misa cung cấp giải pháp phần mềm cho DNNVV, cho hộ kinh doanh, thậm chí khách hàng cá nhân được áp dụng miễn phí những chi tiêu cá nhân.

Misa cũng áp dụng công nghệ Blockchain để đảm bảo tính an toàn, bảo mật thông tin cho khách hàng, đồng thời hỗ trợ sau bán 24/7 cho khách hàng.

“Doanh nghiệp nên triển khai càng sớm càng tốt những ứng dụng về hoá đơn điện tử. Doanh nghiệp cần lựa chọn nhà cung cấp có uy tín, kinh nghiệm, có giải pháp bảo mật và đảm bảo tính pháp lý cao khi sử dụng hóa đơn điện tử”, đại diện Misa nhấn mạnh.

Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI

Phát biểu kết luận Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho biết, thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp chưa triển khai sử dụng hóa đơn điện tử đều có chung những mối lo như còn chần chừ chưa sử dụng hóa đơn điện tử vì những vướng mắc các doanh nghiệp vừa phản ánh tại Diễn đàn như các cơ quan quản lý chưa đồng nhất, chưa có hướng dẫn chi tiết cả về kỹ thuật lẫn nội dung…

Vì chưa đến thời gian bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử nên các doanh nghiệp cũng có tâm lý “chờ” đến khi bắt buộc. Tâm lý này xuất phát từ việc chưa hiểu hết những lợi ích của hóa đơn điện tử mang lại, cũng như chưa thấy hết tầm quan trọng của việc hội nhập hoặc lo ngại rằng khi sử dụng hóa đơn điện tử, ứng dụng công nghệ sẽ khó khăn, phức tạp, khó sử dụng.

Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp còn quan ngại về vấn đề an toàn, bảo mật của hóa đơn điện tử khi thực hiện trên môi trường internet, không tin tưởng vào công cụ, an ninh an toàn của nhà cung cấp…

“Chính vì vậy, mặc dù số lượng hóa đơn điện tử đã tăng mạnh nhưng tỷ trọng hóa đơn điện tử mới chỉ chiếm từ 25 – 30% và vẫn chưa thực sự được áp dụng  rộng rãi, cần các cơ chế thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa từ các cơ quan quản lý nhà nước” – ông Phòng cho biết.

Ngày 12/9/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2018/NĐ-CP hướng dẫn quản lý, sử dụng hoá đơn điện tử. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong sử dụng hóa đơn khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, Nghị định 119 đã đưa ra lộ trình chuyển đổi từ việc sử dụng hóa đơn tự in, hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử trong vòng 24 tháng.

Các cơ quan quản lý mong muốn khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Luật này trước ngày 01/7/2022.

“Do đó, các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực này rất đáng hoan nghênh, thể hiện sự chủ động trong hội nhập, quyết tâm cùng với cơ quan quản lý nhà nước thực hiện công tác về thuế một cách chuẩn chỉ hơn” – Phó Chủ tịch VCCI nói – “Việc chuyển đổi từ sử dụng hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử là yêu cầu tất yếu của một hệ thống thương mại hiện đại, minh bạch, cần làm, nên làm và phải làm. Tuy nhiên, để hóa đơn điện tử trở nên phổ cập thì cần rất nhiều nỗ lực của cơ quan quản lý, của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để thay đổi nhận thức, tư duy của người dân và cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực này”. 

Phó Chủ tịch VCCI cho rằng, “chúng tôi mong muốn cơ quan quản lý đồng hành cùng doanh nghiệp để có nhận thức chung về thực hiện hóa đơn điện tử theo đúng lộ trình. VCCI luôn đồng hành cùng doanh nghiệp để có được những khuyến nghị trình lên Chính phủ”.

“Tôi đề nghị Ban tổ chức phải có một báo cáo cụ thể về những vướng mắc của doanh nghiệp để từ đó cơ quan chức năng đưa vào xây dựng một cách nhanh nhất một Thông tư hướng dẫn không chỉ giúp doanh nghiệp mà cả những khó khăn của cơ quan quản lý” – ông nhấn mạnh.

Nguồn: https://enternews.vn/truc-tuyen-dien-dan-thao-go-vuong-mac-trong-trien-khai-hoa-don-dien-tu-154953.html